Thứ Hai, 23/12/2024 Mới nhất
ĐT Pháp

Stade de France

Official Website:

ĐT Pháp

Đội tuyển bóng đá quốc gia Pháp - Gà trống Gô-loa

Đội tuyển bóng đá quốc gia Pháp (tiếng Pháp: "Équipe de France de football") là đội bóng đá đại diện cho nước Pháp tham dự các giải thi đấu quốc tế và là một trong những đội tuyển hàng đầu thế giới với hai lần vô địch thế giới vào các năm 1998, 2018 và 2 lần vô địch châu Âu các năm 1984, 2000. Ngoài ra, đội tuyển Pháp vô địch Olympic 1 lần vào năm 1984 tại Los Angeles và FIFA Confederations Cup 2 lần liên tiếp các năm 2001, 2003. Đội được Liên đoàn bóng đá Pháp (FFF) quản lý.

Thông tin trong bài viết sử dụng tư liệu từ wikipedia.

1. Tổng quan 


Đội tuyển bóng đá quốc gia Pháp

Biệt danh

Les Bleus (Đội quân màu xanh lam)

Les Tricolores (Tam tài) La Sélection (Đội tuyển)

Le coq Gaulois (Những chú gà trống Gô-loa)

Hiệp hội

Liên đoàn bóng đá Pháp

Liên đoàn châu lục

UEFA (Châu Âu)

HLV trưởng

Didier Deschamps

Đội trưởng

Hugo Lloris

Thi đấu nhiều nhất

Lilian Thuram (142)

Ghi bàn nhiều nhất

Thierry Henry (51)

Sân nhà

Stade de France

Mã FIFA

FRA

  

Hạng FIFA

Hiện tại

2 Giữ nguyên (19/12/2019)

Cao nhất

1 (5.2001–5.2002, 8–9.2018)

Thấp nhất

26 (9.2010)

Hạng Elo

Hiện tại

3 Giảm 1 (25/11/2019)

Cao nhất

1 (16.8.2018)

Thấp nhất

40 (3–7.1930)

Trận quốc tế đầu tiên

 Bỉ 3–3 Pháp 

(Bruxelles, Bỉ; 1 tháng 5 năm 1904)

Trận thắng đậm nhất

 Pháp 10–0 Azerbaijan 

(Auxerre, Pháp; 6 tháng 9 năm 1995)

Trận thua đậm nhất

 Đan Mạch 17–1 Pháp 

(Luân Đôn, Anh; 22 tháng 10 năm 1908)

Giải thế giới

Sồ lần tham dự

15 (Lần đầu vào năm 1930)

Kết quả tốt nhất

Vô địch (1998, 2018)

Giải vô địch bóng đá châu Âu

Sồ lần tham dự

10 (Lần đầu vào năm 1960)

Kết quả tốt nhất

Vô địch (1984, 2000)

Thành tích huy chương

Bóng đá nam

Thế vận hội

Vàng: Los Angeles 1984 Đồng đội

Bạc: Paris 1900 Đồng đội

Pháp là một trong 4 đội châu Âu tham dự kỳ World Cup đầu tiên tổ chức năm 1930 và là một trong 8 đội bóng từng bước lên ngôi vị cao nhất của bóng đá thế giới. Trong phòng truyền thống của đội còn có 2 chức vô địch châu Âu và cộng thêm 2 chức vô địch Confederation Cup các năm 2001, 2003. Đội cùng với tuyển Argentina và tuyển Brasil là 3 đội tuyển giành được 3 chức vô địch bóng đá nam quan trọng nhất trong hệ thống thi đấu của FIFA: gồm World Cup, Cúp Liên đoàn các châu lục và Huy chương vàng Thế vận hội.

Trong hơn một thế kỷ qua, đội tuyển Pháp đã vượt qua những thất thường trong giai đoạn đầu tiên của mình để ổn định và thành công. Họ đã sản sinh ra 3 thế hệ vàng lớn vào những năm 1950, 1980 và 1990, kết quả là đã thu được rất nhiều danh hiệu lớn. Năm 1958, dưới tầm ảnh hưởng của một vài cầu thủ, đặc biệt là Raymond Kopa, Just Fontaine, Pháp đã kết thúc ở vị trí thứ 3 tại World Cup. Năm 1984, đội tuyển Pháp do Michel Platini làm đội trưởng đã giành chiến thắng tại Euro 1984. Họ lại thực hiện điều này thêm một lần nữa vào năm 2000, lần này dưới sự dẫn dắt của đội trưởng Didier Deschamps và danh thủ kiệt xuất Zinedine Zidane. Pháp trở thành đội tuyển quốc gia thứ bảy vô địch World Cup vào năm 1998 khi họ làm chủ nhà. Pháp đánh bại Brasil 3–0 trong trận chung kết. Năm 2018, tức 20 năm sau đó, họ đã lần thứ hai vô địch, bằng số lần vô địch của Uruguay và Argentina, sau khi đánh bại Croatia trong trận chung kết với tỉ số 4–2. Pháp đứng đầu bảng xếp hạng FIFA lần đầu tiên trong lịch sử vào năm 2001.

Sau thất bại của đội tại World Cup 2010, một cuộc tái thiết chính thức diễn ra trong liên đoàn, kết quả là Chủ tịch FFF Jean-Pierre Escalettes phải từ chức và Laurent Blanc được bổ nhiệm làm huấn luyện viên trưởng. Trong triều đại 2 năm của Blanc, lực lượng tuyển Pháp đã được thay máu mạnh mẽ với sự xuất hiện của một thế hệ vàng mới, là tiền đề quan trọng cho triều đại của huấn luyện viên Didier Deschamps gặt hái thành công sau này.

Pháp thường chọn Stade de France ở ngoại ô Paris làm sân nhà từ năm 1998. Đối thủ truyền kiếp của Pháp là nước láng giềng Ý, nhưng họ cũng có nhiều cạnh tranh trong quá khứ với Bỉ và Anh vào thời kì đầu và với Đức vào những năm 1980.

2. Lịch sử 

2.1 Những năm đầu tiên

Sự ra đời của đội tuyển bóng đá Pháp gắn liền với sự ra đời của Liên đoàn bóng đá thế giới (FIFA) vào năm 1904. Tính từ thời điểm đó, các trận đấu quốc tế được tổ chức dưới sự điều hành của FIFA. Trước thời điểm năm 1904, một số trận đấu tập hợp các cầu thủ Pháp xuất sắc nhất cũng được tổ chức, đa phần dưới phiên hiệu của Liên hiệp các hiệp hội thể thao Pháp (Union des sociétés françaises de sports athlétiques - USFSA). Năm trận đấu quốc tế giữa tuyển USFSA với các đội tuyển Bỉ và Anh nghiệp dư đã được tổ chức từ năm 1900 cho đến năm 1904, với chiến thắng 6-2 trước tuyển Bỉ và 4 thất bại trước đội bóng Anh Quốc. Đại diện cho Pháp tại Thế vận hội Mùa hè 1900, là tuyển USFSA gồm các cầu thủ thuộc câu lạc bộ Club français. Đội giành huy chương bạc.
 
Đội tuyển bóng đá Pháp thi đấu trận đấu chính thức đầu tiên vào ngày mùng 1 tháng 5 năm 1904 và thủ hòa 3 - 3 với đội tuyển Bỉ. Ba cầu thủ ghi bàn đầu tiên trong lịch sử đội tuyển Pháp là Louis Mesnier, Marius Royet và Gaston Cyprès. Năm 1905, đội thi đấu trận đầu tiên trên sân nhà trước tuyển Thụy Sĩ, và giành chiến thắng đầu tiên. Những năm tiếp sau đó đội có những thành tích ít vẻ vang hơn, đặc biệt với hai trận đại bại trước tuyển Đan Mạch cách nhau có 3 ngày (0-9 rồi 1-17) tại Thế vận hội Luân Đôn. Dù không được FIFA công nhận chính thức từ ngày mùng 7 tháng 6 năm 1908, USFSA vẫn còn được phép tổ chức đội tuyển chuẩn bị cho Thế vận hội Mùa hè 1908. Hội cử hai đội Pháp A và B sang London. Luật khi đó cho phép mỗi quốc gia cử hai đội đại diện, nhưng chỉ có Pháp dùng tới quyền này. 44 cầu thủ Pháp tới London trong tình trạng mệt mỏi sau chuyến đi dài bằng tàu hỏa và tàu thủy và tới đúng sáng ngày thi đấu mới tới nơi. Kết quả là hai trận thảm hại (được tính là trận đấu thứ 11 và 12 trong lịch sử đội tuyển Pháp). Kể từ trận gặp Bỉ ngày 9 tháng 5 năm 1908, Ủy ban liên hiệp hội Pháp (Comité français interfédéral - CFI) quản lý đội tuyển và là tổ chức duy nhất được FIFA công nhận. Những năm tiếp theo CFI không thống nhất được với USFSA, tổ chức vốn là một trong những thành viên sáng lập của Ủy ban Olympic Quốc tế (IOC), để cử một đội tuyển Pháp đi dự Thế vận hội năm 1912. Pháp đành tuyên bố bỏ cuộc.
 
Nhưng USFSA cũng buộc phải tái tổ chức những năm sau đó, trở thành một thành viên bán trực thuộc CFI từ năm 1913. Thế chiến thứ nhất bùng nổ làm gián đoạn các hoạt động thi đấu thể thao, trong số các tuyển thủ Pháp ra chiến tuyến, có tổng cộng 17 người hy sinh ngoài mặt trận.
 
Hòa bình lập lại, CFI trở thành Liên đoàn bóng đá Pháp ("Fédération Française de Football") từ năm 1919. USFSA cũng sáp nhập vào liên đoàn kể từ năm 1921. Từ đây chấm dứt tranh cãi liệu đội đại diện cho nước Pháp có phải là Đội tuyển bóng đá quốc gia Pháp hay chỉ là một đội tuyển các cầu thủ thuộc quyền quản lý của liên đoàn này hay liên đoàn kia.
 
Để chuẩn bị cho Thế vận hội Mùa hè 1924 được tổ chức tại Paris. Sau một chuỗi trận toàn thua, đội đã quyết định thuê một huấn luyện viên người Anh, ông Charles Griffiths, về huấn luyện đội. Griffiths ngay lập tức bị chỉ trích kịch liệt vì gọi lên đội tuyển nhiều cầu thủ đang đầu quân cho các câu lạc bộ ở tỉnh. Trong khi việc đó là hoàn toàn có lý, khi cùng năm đó, hai đội bóng bước lên hai ngôi vị cao nhất bóng đá Pháp là hai đội bóng không của thủ đô: Olympique de Marseille và FC Cette.
 
Bước vào Thế vận hội Mùa hè 1924, sau lễ bốc thăm, Pháp không phải đấu vào một mà được vào thẳng vòng 16 đội. Tuyển Pháp tại vòng đấu này hạ Đội tuyển bóng đá quốc gia Latvia với tỉ số 7-0, trước khi thúc thủ trước đội sau đó giành huy chương vàng là Uruguay với tỉ số 1-5.
 
Bốn năm sau đó, tại Thế vận hội Mùa hè 1928, đội cũng không vượt qua vòng đấu đầu tiên khi để thua Ý với tỉ số 3-4.

2.2 Thập niên 1930

Đội tuyển Pháp là một trong 13 đội bóng tham dự giải vô địch bóng đá thế giới đầu tiên được tổ chức năm 1930 tại Uruguay (tiền đạo Lucien Laurent là cầu thủ đầu tiên ghi bàn tại một kỳ World Cup trong trận gặp Mexico). Đội không vượt qua vòng bảng: với thành tích thắng Mexico 4-1 nhưng để thua hai trận kế tiếp cùng với tỉ số 0-1 trước Argentina và Chile.
 
Năm sau đó, đội có hai chiến thắng ấn tượng, đầu tiên là đánh bại tuyển Đức với tỉ số 1-0, sau đó là quật ngã Anh với tỉ số đậm 5-2 vào ngày 14 tháng 5 năm 1931.
 
Đến World Cup 1934, giải thi đấu theo thể thức loại trực tiếp, theo bốc thăm ở vòng 1, Pháp sẽ gặp tuyển Áo, một trong những ứng cứ viên của giải. Trận đấu diễn ra vào ngày 27 tháng 5 năm 1934, Pháp chỉ chịu thua với tỉ số 2-3 sau hai hiệp phụ. Khi đội về tới Paris, gần 4.000 người đã tụ tập đón đội.
 
Cầu thủ da màu đầu tiên, Raoul Diagne, lần đầu tiên khoác áo đội vào năm 1931. Cầu thủ gốc Bắc Phi đầu tiên thi đấu cho tuyển Pháp là tiền vệ tổ chức người Maroc Larbi Ben Barek. Raoul Diagne và Larbi Ben Barek thi đấu cùng nhau trong trận đấu nổi tiếng gặp tuyển Ý ngày 4 tháng 12 năm 1938. Đội tuyển Pháp " black, blanc, beur " - " đen, trắng, Ả Rập " ra đời vào ngày hôm đó. 

2.3 Thế hệ vàng thập niên 1950

Những năm 1950 chứng kiến ​​Pháp trình làng thế hệ vàng đầu tiên của mình bao gồm các cầu thủ như Just Fontaine, Raymond Kopa, Jean Vincent, Robert Jonquet, Maryan Wisnieski, Thadée Cisowski, và Armand Penverne. Tại World Cup 1958, Pháp vào đến vòng bán kết và thua Brazil. Trong trận đấu tranh hạng ba, Pháp đánh bại Tây Đức 6-3 với 4 bàn thắng của Fontaine, người đã giành danh hiệu vua phá lưới giải đấu với số bàn thắng lên tới con số 13, một kỷ lục của World Cup vẫn đứng vững đến hiện nay. Pháp làm chủ nhà Giải vô địch bóng đá châu Âu năm 1960 và lại đến vòng bán kết. Trong vòng này, Pháp phải đối mặt với Nam Tư và bị thua ngược 5-4 dù đã dẫn trước 4-2 đến phút 75. Trong trận đấu tranh hạng ba, Pháp bị Tiệp Khắc đánh bại 2-0.

2.4 Khủng hoảng những năm 1960 - 70

Những năm 1960 và 70 chứng kiến sự thoái trào đáng kể của bóng đá Pháp khiến họ bị loại khỏi nhiều giải đấu quốc tế. Ngày 25 tháng 4 năm 1964, Henri Guérin đã chính thức trở thành huấn luyện viên. Dưới thời Guérin, Pháp vượt qua vòng loại World Cup 1962 và Euro 1964. Họ lọt vào vòng chung kết World Cup 1966 nhưng phải về nước ngay sau vòng bảng của giải đấu. Guérin bị sa thải sau World Cup này. Ông được thay thế bởi José Arribas và Jean Snella. Thời đại của bộ đôi huấn luyện viên này chỉ kéo dài trong bốn trận đấu và họ được thay thế bởi cựu cầu thủ quốc tế Just Fontaine, người chỉ huấn luyện cho đội hai trận. Louis Dugauguez kế tục và đã đưa Pháp lọt vào vòng chung kết World Cup 1970. Sau khi Dugauguez bị sa thải, Georges Boulogne lên nắm quyền và cũng bị sa thải sau thất bại tại vòng loại World Cup 1974 và được thay thế bằng huấn luyện viên người Rumani Stefan Kovacs, người nước ngoài đầu tiên và duy nhất huấn luyện đội tuyển quốc gia thời điểm đó. Kovács cũng gây thất vọng khi không thể đưa Pháp đến World Cup 1974 và Euro 1976. Sau hai năm huấn luyện, ông bị sa thải và được thay thế bằng Michel Hidalgo.

2.5 Thế hệ vàng thập niên 1980 

Dưới thời Hidalgo, Pháp phát triển mạnh mẽ, chủ yếu là do sự tỏa sáng của tiền vệ Michel Platini, người cùng với Jean Tigana, Alain Giresse, và Luis Fernández hình thành nên "Hình vuông ma thuật", làm ám ảnh nhiều hàng phòng thủ đối phương, bắt đầu từ World Cup 1982, nơi mà Pháp lọt đến vòng bán kết và chỉ thua cay đắng trên chấm phạt đền trước đối thủ Tây Đức. Trận bán kết giữa Pháp và Đức năm 1982 được coi là một trong những trận đấu lớn nhất trong lịch sử World Cup. Pháp lần đầu có được danh hiệu quốc tế hai năm sau đó, sau chiến thắng tại Euro 1984, khi họ tổ chức.. Dưới sự dẫn dắt của Platini, người đã ghi chín bàn thắng trong giải đấu, Pháp đánh bại Tây Ban Nha 2-0 trong trận chung kết với hai bàn thắng của Platini và Bruno Bellone. Sau chiến thắng Euro, Hidalgo rời đội và được thay thế bởi cựu tuyển thủ quốc tế Henri Michel. Pháp sau này hoàn thành hat-trick khi họ giành huy chương vàng tại Thế vận hội, một năm sau đó, đánh bại Uruguay 2-0 để giành Cúp Artemio Franchi, tiền thân của FIFA Confederations Cup. Trong thời gian một năm, Pháp đã sở hữu ba trong số bốn danh hiệu quốc tế lớn. Tại World Cup 1986, Pháp là một ứng cử viên rất nặng ký và một lần nữa, trong World Cup thứ hai liên tiếp, lại lọt đến vòng bán kết, nơi họ phải đối mặt với Tây Đức. Một lần nữa, họ lại để thua. Chiến thắng 4-2 trước Bỉ đã giúp Pháp có được vị trí thứ ba.

2.6 Thế hệ vàng thập niên 1990 - 2000 

Năm 1988, Liên đoàn bóng đá Pháp mở Học viện bóng đá quốc gia Clairefontaine. Năm tháng sau khi Clairefontaine mở của, huấn luyện viên Henri Michel bị sa thải sau khi không đưa được đội đến Giải vô địch bóng đá thế giới 1990. Người thay thế là huyền thoại Platini đã đưa Pháp đến Euro 1992 sau khi toàn thắng ở vòng loại. Mặc dù đã có chuỗi 19 trận bất bại trước đó, Pháp bị loại bỏ ở vòng bảng sau khi thúc thủ trước Đan Mạch 1-2 trong trận đấu cuối cùng. Một tuần sau khi kết thúc giải đấu, Platini từ chức và được thay thế bằng người trợ lý Gérard Houllier của mình. Dưới thời Houllier, đội Pháp và những cổ động viên của họ đã trải qua một thảm kịch đau lòng sau khi họ gần như đã đủ điểm cho World Cup 1994, và chỉ cần giành 1 điểm trong 2 trận đấu trên sân nhà trước Israel và Bulgaria là hoàn thành mục tiêu. Tuy nhiên, trong trận đấu với Israel, Pháp đã thua 2-3, trong trận Bulgaria, bị thua ngược 1-2. Houllier đã phải ra đi. Aimé Jacquet trợ lý của ông đã được bổ nhiệm với sứ mệnh dẫn dắt đội bóng tại World Cup 1998, nơi Pháp làm chủ nhà.
 
Để thay đổi một đội tuyển Pháp rệu rã, Jacquet thẳng tay loại bỏ nhiều cựu binh để nhường chỗ cho các tuyển thủ trẻ, tiêu biểu là Zinedine Zidane. Đội đã lọt tới trận bán kết của UEFA Euro 1996, nơi họ bị thua 6-5 trên chấm phạt đền trước Cộng hòa Séc. Trong giải đấu lớn tiếp theo tại World Cup 1998, Jacquet đã dẫn dắt Pháp đến vinh quang khi đánh bại Brasil 3-0 trong trận chung kết tại Stade de France. Jacquet rút lui sau chiến thắng tại World Cup và đã được kế tục thành công bởi trợ lý Roger Lemerre, người đã đưa Pháp giành được chức vô địch châu Âu tại Euro 2000. Được dẫn dắt danh thủ Zidane, Pháp đánh bại Italia 2-1 trong trận chung kết với bàn thắng vàng của Trezeguet trong hiệp phụ. Đây là lần đầu tiên có một đội tuyển quốc gia có được cả hai chức vô địch World Cup và Euro cùng lúc kể từ khi Tây Đức làm được vào năm 1974, và đây cũng là lần đầu tiên một đội đương kim vô địch thế giới giành được chức vô địch châu Âu. Pháp đã nhảy vào vị trí số một trong xếp hạng của FIFA.
 
Sau khi giành được Confederation Cup vào năm 2001, Pháp đã thâu tóm đầy đủ 3 danh hiệu quan trọng nhất của bóng đá thế giới. Thế hệ vàng của Pháp, ngoài sự xuất sắc của Zidane còn phải kể đến các danh thủ như Thierry Henry, David Trezeguet, Patrick Vieira, Didier Deschamps, Emmanuel Petit, Lilian Thuram, Bixente Lizarazu, Laurent Blanc, Youri Djorkaeff, Robert Pirès, Fabien Barthez và một số tuyển thủ khác như: Sylvain Wiltord, Frank Leboeuf, Claude Makélélé... Mặc dù hầu hết các cầu thủ trong đội tuyển Pháp lúc đó đều là các siêu sao hàng đầu thế giới ở vị trí của mình nhưng nhiều người chỉ trích rằng Pháp quá phụ thuộc vào tài năng tổ chức trận đấu của Zidane và khi vắng cầu thủ này, những ngôi sao khác trong đội tuyển Pháp không thể chơi kết dính và bùng nổ nữa. Minh chứng rõ nét cho điều này là tại World Cup 2002 khi Zidane bất ngờ dính chấn thương trong trận đấu giao hữu với chủ nhà Hàn Quốc trước khi giải đấu khai mạc. Pháp nhanh chóng thể hiện lối chơi rời rạc khi thiếu vắng nhạc trưởng của mình và bị loại cay đắng. Mặc dù rơi vào bảng đấu dễ thở với những đối thủ dưới cơ là Đan Mạch, Uruguay và Senegal, Pháp kết thúc vòng bảng với chỉ 1 điểm kiếm được và không ghi được một bàn thắng nào, trở thành đội đương kim vô địch có thành tích kém cỏi nhất trong các kì World Cup. Lemerre bị sa thải và Santini lên nắm đội.
 
Sau khi giành thêm Confederation Cup vào năm 2003, Pháp lại nổi lên như là ứng cử viên hàng đầu cho chức vô địch tại Euro 2004. Tuy nhiên, một lần nữa, sự dựa dẫm quá nhiều vào Zidane khiến Pháp phải trả giá. Sau khi cứu cho Pháp khỏi thất bại trước Anh trong trận đấu đầu tiên bằng hai bàn thắng ghi liền trong 3 phút cuối trận, Zidane chẳng thể làm gì khi bị vô hiệu hóa trước lối chơi kỉ luật của các cầu thủ Hy Lạp (đội sau đó vô địch) tại vòng tứ kết. Pháp thua 0-1 và trở thành cựu vương của châu Âu. Sau giải đấu, Zidane tuyên bố từ giã đội tuyển.
 
Jacques Santini từ chức huấn luyện viên và Raymond Domenech đã được chọn để thay thế ông. Pháp thi đấu chật vật ở nửa đầu vòng loại World Cup 2006. Điều này khiến Domenech đã phải thuyết phục một số một số lão tướng trở lại đội tuyển để giúp đội vượt qua vòng loại. Nghe theo lời thuyết phục này, ba cựu binh sáng giá là Zidane, Thuram và Makélélé trở lại đội tuyển và giúp Pháp cán đích tại vòng loại World Cup 2006. Ở World Cup 2006, Pháp đã bất khả chiến bại ở vòng bảng và tiến thẳng đến trận đấu cuối cùng của giải sau khi liên tiếp đánh bại Tây Ban Nha, Brazil và Bồ Đào Nha. Pháp đã gặp Ý trong trận chung kết và hòa 1-1 sau 120 phút trước khi thua 5-3 trên chấm phạt đền.

2.7 Khủng hoảng thế hệ thời kì "hậu Zidane"

Trận chung kết World Cup 2006 là trận đấu cuối cùng trong sự nghiệp của Zidane. Sau một thập niên tạo ảnh hưởng lớn lên lối chơi của đội tuyển Pháp, việc Zidane giã từ sự nghiệp đã tạo ra một sự hẫng hụt đối với đội bóng "Áo Lam". Dù Domenech cố gắng xây dựng một đội bóng không lệ thuộc vào một cá nhân nào nhưng đây tỏ ra là một công việc quá sức. Domenech vẫn phải tin dùng vào các cựu binh như Thuram hay Makelele để ổn định lối chơi của đội và không tin dùng nhiều cầu thủ trẻ tài năng. Mặc dù Pháp đã lọt được cả vào vòng chung kết của Euro 2008 và World Cup 2010 nhưng đó đều là những chiến dịch rất khó nhọc, đặc biệt là ở vòng loại World Cup 2010 khi Pháp phải nhờ đến "bàn tay bẩn" của Henry trong hiệp phụ trận đấu tranh vé vớt với Ireland để được góp mặt tại World Cup. Trong cả hai giải đấu lớn nói trên, Pháp đều thi đấu tệ hại, thiếu gắn kết và đều bị loại ngay từ vòng bảng.
 
Đặc biệt, tại World Cup 2010, những mâu thuẫn nội bộ trong đội tuyển đã lên đến đỉnh điểm khi toàn bộ đội bóng đã bỏ một buổi tập và công khai một bức thư ngỏ để phản đối quyết định của LĐBĐ Pháp (FFF) và huấn luyện viên Domenech khi đuổi tiền đạo Nicolas Anelka về nước sau trận thua Mexico do tiền đạo này đã chửi ông Domenech. Vụ việc này đã khiến cho toàn bộ đội hình của đội tuyển Pháp dự World Cup đều bị treo giò ít nhất một trận sau đó. Triều đại của Domenech cũng kết thúc sau giải đấu này.

2.8 Nỗ lực tái thiết của Blanc 

Mặc dù việc bổ nhiệm Laurent Blanc vào vị trí huấn luyện viên trưởng chỉ diễn ra sau World Cup nhưng trên thực tế, ngay từ trước khi World Cup diễn ra, nhiều tờ tạp chí của Pháp đã tiết lộ thông tin này.
 
Trong trận đấu đầu tiên dưới triều đại của Blanc (gặp Na Uy trong một trận giao hữu), toàn bộ 23 cầu thủ dự World Cup của Pháp đều bị treo giò. Blanc buộc phải xây dựng một bộ khung đội tuyển với nhiều gương mặt trẻ và mới để thay thế một đội tuyển đã rệu rã. Pháp khởi đầu kỉ nguyên Blanc bằng thất bại 1-2 trước Na Uy.
 
Trong trận đấu chính thức đầu tiên tại vòng loại Euro 2012, vẫn còn 5 tuyển thủ của Pháp bị treo giò gồm Anelka, Ribery, Evra, Abidal, Toulalan, Pháp thúc thủ trên sân nhà trước đội bóng trung bình Belarus với tỉ số 0-1.
 
Tuy nhiên, khi bị dồn vào thế chân tường, các cầu thủ Pháp đã thể hiện tinh thần thi đấu cao bằng chiến thắng 2-0 ngay trên sân của Bosnia. Kể từ đó, Pháp đã có chuỗi 4 trận thắng liên tiếp tại vòng loại, để vươn lên dẫn đầu bảng D. Pháp cũng giành chiến thắng 2-1 trên sân Wembley trước Anh và 1-0 trên sân nhà trước Brazil trong các trận giao hữu. Nỗ lực tái thiết của Blanc dù gặp nhiều khó khăn lúc đầu nhưng đã có những bước tiến vững chắc. Pháp kết thúc vòng loại với vị trí nhất bảng D và giành tấm vé trực tiếp tham dự vòng chung kết Euro 2012.
 
Tại Euro 2012, đội tuyển Pháp ban đầu thi đấu khá ổn khi hòa Anh với tỉ số 1-1 với bàn thắng gỡ hòa của Samir Nasri và thắng chủ nhà Ukraina với tỉ số 2-0 bằng hai bàn thắng của Jérémy Menez và Yohan Cabaye. Tuy nhiên, Pháp bất ngờ thua đội đã bị loại là Thụy Điển với tỉ số 0-2 ở lượt cuối bảng D và chỉ có thể đi tiếp với vị trí nhì bảng, qua đó phải gặp ĐKVĐ Tây Ban Nha ở tứ kết. Trận thua này khiến phòng thay đồ của tuyển Pháp một lần nữa rơi vào trạng thái xung đột buộc FFF phải điều tra hành vi của 4 nghi can có liên quan là Samir Nasri, Hatem Ben Arfa, Jeremy Menez và Yann M'Vila. Pháp sau đó thua Tây Ban Nha với tỉ số 0-2 ở tứ kết. Sau Euro 2012, huấn luyện viên Laurent Blanc đã từ chức.

2.9 Triều đại Didier Deschamp và thế hệ vàng mới

Didier Deschamps đến với đội bóng áo lam từ năm 2012 sau khi Laurent Blanc từ chức. Ở vòng loại World Cup 2014, Pháp rơi vào bảng đấu có Tây Ban Nha và chỉ đứng nhì bảng, qua đó phải đá play-off trước Ukraine để kiếm vé dự World Cup. Đội đã để thua Ukraine 0-2 trong trận lượt đi tại Kiev và đứng trước nguy cơ lỡ hẹn với World Cup lần đầu tiên kể từ năm 1994. Tuy nhiên Pháp đã chơi xuất thần trong trận lượt về tại Stade de France khi lội ngược dòng bằng trận thắng 3-0 để giành vé đến Brazil.
 
Ở World Cup 2014, Pháp thi đấu ấn tượng khi đứng đầu bảng đấu có Honduras, Thụy Sỹ và Ecuador. Đội hạ Nigeria 2-0 ở vòng 2 trước khi để thua sát nút trước đội tuyển Đức (đội sau đó đăng quang) với tỉ số 0-1 ở tứ kết. Hai năm sau, Didier Deschamps đã dẫn dắt đội tuyến Pháp tiến vào trận chung kết Euro 2016 mà Pháp là chủ nhà trước khi để thua sát nút trước Bồ Đào Nha với tỉ số 0-1 và giành được ngôi á quân. Đây là những bước tiến quan trọng của đội để trở lại chu kỳ thành công sau nhiều năm trì trệ.
 
Pháp cũng bắt đầu trình làng một thế hệ tài năng mới quy tụ dàn cầu thủ đẳng cấp trải đều khắp các tuyến. Tại World Cup 2018, họ sở hữu đội hình có giá trị chuyển nhượng đắt nhất giải - hơn 1 tỷ euro. Những cầu thủ nổi bật có thể kể đến như Antoine Griezmann, Paul Pogba, Raphaël Varane, N'Golo Kanté, Benjamin Mendy, Ousmane Dembélé và đặc biệt là tài năng trẻ sáng giá Kylian Mbappé. Với một đội hình mạnh và đồng đều, Pháp dễ dàng đứng đầu bảng đấu có Đan Mạch, Peru và Úc dù họ không bung hết sức. Ở vòng knock-out, đội vượt qua một loạt các đối thủ mạnh như Argentina, Uruguay và Bỉ để lọt vào chung kết gặp Croatia. Cuối cùng, Deschamp và các cầu thủ Pháp đã giành chức vô địch thế giới lần thứ hai trong lịch sử khi thắng Croatia 4–2 trong trận chung kết. Bên cạnh đó ông cũng đã đi vào lịch sử với tư cách là người thứ 3 vô địch World Cup trên cương vị cầu thủ và huấn luyện viên, trước đó người đầu tiên là Mario Zagallo và người thứ 2 là Franz Beckenbauer.
 

3. Danh hiệu


Vô địch thế giới: 2

  • Vô địch: 1998; 2018
  • Á quân: 2006
  • Hạng ba: 1958; 1986
  • Hạng tư: 1982
Vô địch châu Âu: 2
  • Vô địch: 1984; 2000
  • Á quân: 2016
  • Hạng tư: 1960
  • Bán kết: 1996
Vô địch Liên đoàn châu lục: 2
  • Vô địch: 2001; 2003
Bóng đá nam tại Olympic:
  • Huy chương vàng  1984
  • Huy chương bạc 1900
  • Hạng tư: 1920

4. Thành tích quốc tế

4.1 Giải vô địch bóng đá thế giới

 

Năm

Quốc gia

Kết quả

St

T

H

B

Bt

Bb

1930

Uruguay

Vòng 1

3

1

0

2

4

3

1934

Ý

Vòng 1

1

0

0

1

2

3

1938

Pháp

Tứ kết

2

1

0

1

4

4

1950

Brasil

Không vượt qua vòng loại

1954

Thụy Sĩ

Vòng 1

2

1

0

1

3

3

1958

Thụy Điển

Hạng ba

6

4

0

2

23

15

1962

Chile

Không vượt qua vòng loại

1966

Anh

Vòng 1

3

0

1

2

2

5

1970

México

Không vượt qua vòng loại

1974

Tây Đức

1978

Argentina

Vòng 1

3

1

0

2

5

5

 1982

Tây Ban Nha

Hạng tư

7

3

2

2

16

12

1986

México

Hạng ba

7

4

2

1

12

6

1990

Ý

Không vượt qua vòng loại

1994

Hoa Kỳ

1998

Pháp

Vô địch

7

6

1

0

15

2

2002

Hàn Quốc Nhật Bản

Vòng 1

3

0

1

2

0

3

2006

Đức

Á quân

7

4

3

0

9

3

2010

Cộng hòa Nam Phi

Vòng 1

3

0

1

2

1

4

2014

Brasil

Tứ kết

5

3

1

1

10

3

2018

Nga

Vô địch

7

6

1

0

14

6

2022

Qatar

Chưa xác định

2026

Canada Hoa Kỳ México

Tổng cộng

15/21
2 lần: Vô địch

66

34

13

19

120

77

 

4.2 FIFA Confederations Cup 

Năm

Quốc gia

Kết quả

St

T

H

B

Bt

Bb

 1992

Ả Rập Xê Út

Không giành quyền tham dự

1995

Ả Rập Xê Út

1997

Ả Rập Xê Út

1999

México

Bỏ cuộc

 2001

Hàn Quốc Nhật Bản

Vô địch

5

4

0

1

12

2

 2003

Pháp

Vô địch

5

5

0

0

12

3

2005

Đức

Không giành quyền tham dự

2009

Cộng hòa Nam Ph

2013

Brasil 

Nga 2017

Nga

Tổng cộng

2/10
2 lần: Vô địch

10

9

0

1

24

5

 

4.3 Giải vô địch bóng đá châu Âu 

Năm

Quốc gia

Kết quả

St

T

H

B

Bt

Bb

1960

Pháp

Hạng tư

2

0

0

2

4

7

1964

Tây Ban Nha

Không vượt qua vòng loại

1968

Ý

1972

Bỉ

1976

Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nam Tư 

1980

Ý

1984

Pháp

Vô địch

5

5

0

0

14

4

1988

Đức

Không vượt qua vòng loại

1992

Thụy Điển

Vòng 1

3

0

2

1

2

3

1996

Anh

Bán kết

5

2

3

0

5

2

2000

Bỉ Hà Lan

Vô địch

6

5

0

1

13

7

 2004

Bồ Đào Nha

Tứ kết

4

2

1

1

7

5

 2008

Thụy Sĩ

Vòng 1

3

0

1

2

1

6

2012

Ba Lan Ukraina

Tứ kết

4

1

1

2

3

5

2016

Pháp

Á quân

7

5

1

1

13

5

2020

Liên minh châu Âu 

Vượt qua vòng loại

2024

Đức

Chưa xác định

Tổng cộng

 

10/16
2 lần: Vô địch

39

20

9

10

62

44

5. Cầu thủ 

5.1 Đội hình hiện tại

Dưới đây là danh sách 23 cầu thủ được triệu tập tham dự vòng loại Euro 2020 gặp Moldova và Albania vào các ngày 14 và 17 tháng 11 năm 2019.

Số liệu thống kê tính đến ngày 17/11/2019 sau trận gặp Albania. 

Số

Vị trí

Cầu thủ

Ngày sinh

Trận

Bt

Câu lạc bộ

1

Thủ môn

Alphonse Areola

27/2/1993

3

0

Real Madrid 

16

Thủ môn

Steve Mandanda

28/3/1985

32

0

Marseille

23

Thủ môn

Mike Maignan

3/7/1995

0

0

Lille

2

Hậu vệ

Benjamin Pavard

28/3/1996

27

1

Bayern Munich

3

Hậu vệ

Presnel Kimpembe

13/8/1995

9

0

PSG

4

Hậu vệ

Raphaël Varane (Đội trưởng)

25/4/1993

64

5

Real Madrid

5

Hậu vệ

Clément Lenglet

17/6/1995

7

1

Barcelona

15

Hậu vệ

Kurt Zouma

27/10/1994

5

1

Chelsea

19

Hậu vệ

Lucas Digne

20/7/1993

30

0

Everton

21

Hậu vệ

Léo Dubois

14/9/1994

4

0

Lyon

22

Hậu vệ

Benjamin Mendy

17/7/1994

10

0

Manchester City

6

Tiền vệ

Tanguy Ndombele

28/12/1996

6

0

Tottenham Hotspur

12

Tiền vệ

Corentin Tolisso

3/8/1994

21

1

Bayern Munich

13

Tiền vệ

N'Golo Kanté

29/3/1991

39

1

Chelsea

14

Tiền vệ

Matteo Guendouzi

14/4/1999

0

0

Arsenal

17

Tiền vệ

Moussa Sissoko

16/8/1989 

62

2

Tottenham Hotspur

7

Tiền đạo

Antoine Griezmann

21/3/1991

78

30

Barcelona

8

Tiền đạo

Thomas Lemar

12/11/1995

22

4

Atlético Madrid

9

Tiền đạo

Olivier Giroud

30/9/1986

97

39

Chelsea

10

Tiền đạo

Kylian Mbappé

20/12/1998

34

13

 PSG

11

Tiền đạo

Kingsley Coman

13/6/1996

22

4

Bayern Munich

18

Tiền đạo

Nabil Fekir

18/7/1993

24

2

Betis

20

Tiền đạo

Wissam Ben Yedder

12/8/1990

8

2

Monaco

 

5.2 Triệu tập gần đây

Vị trí

Cầu thủ

Ngày sinh (tuổi)

Số trận

Bt

Câu lạc bộ

Lần cuối triệu tập

Thủ môn

Hugo Lloris (Đội trưởng)

26/12/1986

114

0

Tottenham Hotspur

 Iceland, 11/10/2019 INJ

Thủ môn

Benjamin Lecomte

26/4/1991

0

0

AS Monaco

 Bolivia, 2/6/2019

Hậu vệ

Djibril Sidibé

29/7/1992

18

1

Everton

Thổ Nhĩ Kỳ, 14/10/2019

Hậu vệ

Lucas Hernandez

14/2/1996

17

0

Bayern Munich

Thổ Nhĩ Kỳ, 14/10/2019 INJ

Hậu vệ

Samuel Umtiti

14/11/1993

31

4

Barcelona

 Andorra, 10/9/2019 INJ

Hậu vệ

Aymeric Laporte

27/5/1994

0

0

Man City

Albania, 7/9/2019 INJ

Hậu vệ

Ferland Mendy

8/6/1995 

4

0

Real Madrid

Andorra, 11/6/2019 INJ

Hậu vệ

Layvin Kurzawa

4/9/1992

13

1

PSG

 Iceland, 25/3/2019

Tiên vệ

Blaise Matuidi

9/4/1987

84

9

Juventus

Moldova, 14/11/2019 INJ

Tiên vệ

Steven Nzonzi

15/12/1988

14

0

Stade Rennais

 Andorra, 10/9/2019

Tiên vệ

Paul Pogba

15/3/1993

69

10

MU

 Albania, 7/9/2019 INJ

Tiền đạo

Jonathan Ikoné

2/5/1998

4

1

Lille

 Thổ Nhĩ Kỳ, 14/10/2019

Tiền đạo

Alassane Pléa

10/3/1993

1

0

Borussia Mönchengladbach

 Thổ Nhĩ Kỳ, 14/10/2019

Tiền đạo

Florian Thauvin

26/1/1993

10

1

Marseille

Andorra, 11/6/2019 INJ

Tiền đạo

Anthony Martial

5/12/1995

18

1

MU

 Moldova, 22/3/2019 INJ

 Chú thích:

INJ: Cầu thủ rút lui khỏi đội hình vì chấn thương

RET:Cầu thủ đã giã từ đội tuyển quốc gia
 

5.3 Kỷ lục về bàn thắng và số lần khoác áo 

Tiểu sử Đội tuyển bóng đá quốc gia Pháp - Gà trống Gô-loa hình ảnh
Lilian Thuram là cầu thủ thi đấu nhiều nhất với 142 lần khoác áo đội tuyển quốc gia

5.3.1. Số lần khoác áo đội tuyển quốc gia

STT

Năm

Năm khoác áo

Số trận

Số bàn thắng

1

Lilian Thuram

1994–2008

142

2

2

Thierry Henry

1997–2010

123

51

3

Marcel Desailly

1993–2004

116

3

4

Hugo Lloris

2008–

114

0

5

Zinédine Zidane

1994–2006

108

31

6

Patrick Vieira

1997–2009

107

6

7

Didier Deschamps

1989–2000

103

4

8

Laurent Blanc

1989–2000

97

16

Bixente Lizarazu

1992–2004

97

2

Olivier Giroud

2011–

97

39

Cập nhật lần cuối: 17/11/2019

Nguồn: French Football Federation

5.3.2. Cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất

Đội tuyển bóng đá quốc gia Pháp hình ảnh gốc
Thierry Henry là cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất cho đội tuyển quốc gia với 51 bàn

STT

Cầu thủ

Năm khoác áo

Số bàn thắng

Số trận

Trung bình

1

Thierry Henry

1997–2010

51

123

0.42

2

Michel Platini

1976–1987

41

72

0.57

3

Olivier Giroud

2011–

39

97

0.4

4

David Trezeguet

1998–2008

34

71

0.47

5

Zinédine Zidane

1994–2006

31

108

0.28

6

Just Fontaine

1953–1960

30

21

1.42

Jean-Pierre Papin

1986–1995

30

54

0.55

Antoine Griezmann

2014–

30

78

0.38

9

Youri Djorkaeff

1993–2002

28

82

0.34

10

Karim Benzema

2007–2015

27

81

0.33

Cập nhật lần cuối: 17/11/2019

Nguồn: French Football Federation

6. Huấn luyện viên
 

TT

Huấn luyện viên

Thời gian huấn luyện

Danh hiệu

1

Hội đồng của FFF

trước 1955

 

2

Albert Batteux

1955-1962

 

3

Henri Guérin

1962-1966

 

4

José Arribas và Jean Snella

1966

 

5

Just Fontaine

1967

 

6

Louis Dugauguez

1967-1968

 

7

Georges Boulogne

1969-1973

 

8

Stefan Kovacs

1973-1975

 

9

Michel Hidalgo

1976-1984

Vô địch Euro 1984

10

Henri Michel

1984-1988

 

11

Michel Platini

1988-1992

 

12

Gérard Houllier

1992-1993

 

13

Aimé Jacquet

1993-1998

Vô địch World Cup 1998

14

Roger Lemerre

1998-2002

Vô địch Euro 2000

 

 

 

Vô địch Confed Cup 2001

15

Jacques Santini

2002-2004

Vô địch Confed Cup 2003

16

Raymond Domenech

2004-2010

Á quân World Cup 2006

17

Laurent Blanc

2010-2012

 

18

Didier Deschamps

2012-nay

Á quân Euro 2016
Vô địch World Cup 2018

Tổng cộng

 

 

 


top-arrow
X